Đặc Điểm Môi Trường Biển Việt Nam

Đặc Điểm Môi Trường Biển Việt Nam

Chiến dịch bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch có chủ đề “Biển Việt Nam xanh” do Bộ VHTT&DL  và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức sẽ diễn ra từ ngày 18-26/5 tại 5 tỉnh, thành phố ven biển miền Trung là Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng.

Chiến dịch bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch có chủ đề “Biển Việt Nam xanh” do Bộ VHTT&DL  và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức sẽ diễn ra từ ngày 18-26/5 tại 5 tỉnh, thành phố ven biển miền Trung là Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng.

Thách thức phát triển bền vững kinh tế biển

Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi, Chủ tịch Hội Thiên nhiên và Môi trường biển Việt Nam cho rằng, một trong những thách thức trong triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam hiện nay là thực trạng ô nhiễm rác thải trên các vùng biển Việt Nam. Điều này đe dọa đến hệ sinh thái biển, nguồn lợi hải sản từ đó tác động đến sinh kế của hàng triệu ngư dân Việt Nam.

Môi trường biển tiếp tục biến đổi theo chiều hướng xấu và ngày càng có nhiều chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông và vùng ven biển đổ ra biển. Hơn nữa, do đặc điểm biển Việt Nam có dòng hải lưu thay đổi theo mùa, là khu vực có lưu lượng tàu bè tấp nập vào bậc nhất thế giới, vì vậy vùng biển Việt Nam thường xuyên bị rác thải, ô nhiễm…

Một trong những thách thức trong triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam hiện nay là thực trạng ô nhiễm rác thải trên các vùng biển Việt Nam. (Phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Chu Hồi)

Một số khu biển ven bờ và cửa sông bị ô nhiễm dầu, chất hữu cơ liên quan tới chất thải sinh hoạt, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm rác thải nhựa. Có những khu vực rừng ngập mặn tràn ngập túi rác thải nilon, đây chính là sức ép lớn lên môi trường, hệ sinh thái và tài nguyên biển.

Hiện lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh của 28 tỉnh ven biển nước ta vào khoảng 14,03 triệu tấn/năm (khoảng 38.500 tấn/ngày). Bên cạnh đó là lượng chất thải rắn tại các tỉnh kinh tế trọng điểm ven biển đang có xu hướng tăng dần, đặc biệt là các chất thải nguy hại ngành công nghiệp nhẹ, hóa chất, luyện kim.

Theo thống kê, trong 10 năm gần đây đã xảy ra trên 100 vụ tràn dầu do tai nạn tàu, dòng hải lưu di chuyển về phía bờ biển Việt Nam. Ngoài ra, ở vùng biển Việt Nam có khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí, bên cạnh thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, hoạt động này còn phát sinh khoảng 5.600 tấn chất thải rắn, trong đó có 20-30% là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa và nơi xử lý. Mức độ ô nhiễm trên đã ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển, từ đó tác động đến sinh kế của người dân vùng biển.

Cụ thể, diện tích rừng ngập mặn mất khoảng 15.000ha/năm, khoảng 80% rạn san hô trong vùng biển Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở mức cao, tình trạng trên cũng diễn ra tương tự với thảm cỏ biển và các hệ sinh thái biển, ven biển khác.

Trong vùng biển Việt Nam có khoảng 100 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau và trên 100 loài đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm dần về trữ lượng, sản lượng và kích thước cá đánh bắt (trữ lượng hải sản giảm 16%).

Năng suất tôm nuôi quảng canh trong rừng ngập mặn bị giảm sút từ khoảng 200 kg/ha/vụ (năm 1980) đến nay chỉ còn 80kg/ha/vụ, và 1ha rừng ngập mặn trước đây có thể khai thác được khoảng 800kg thủy sản, nhưng hiện nay chỉ thu được 1/20 so với trước.

Diện tích rừng ngập mặn mất khoảng 15.000ha/năm, khoảng 80% rạn san hô trong vùng biển Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở mức cao

Quản lý thống nhất thông tin dữ liệu biển

Phương thức quản lý nguồn lợi biển dựa trên cơ sở cộng đồng đã được áp dụng tại nhiều quốc gia, đặc biệt là những nước phát triển và được thừa nhận là phương thức hiệu quả, ít tốn kém để duy trì và quản lý nguồn lợi thủy sản, bảo vệ đa dạng sinh học và đáp ứng các mục tiêu bảo tồn khác cũng như nhu cầu sinh kế của con người..

Điều tra cơ bản biển được xác định là nhiệm vụ quan trọng, nền tảng và được tăng cường đầu tư triển khai hết sức mạnh mẽ.

Điều này đã tăng cường sự chủ động, thúc đẩy sự tham gia tích cực hơn của cộng đồng trong việc cùng chia sẻ trách nhiệm với nhà nước trong việc quản lý và bảo tồn hiệu quả các nguồn lợi biển.

Tại các quốc gia biển, điều tra cơ bản biển được xác định là nhiệm vụ quan trọng, nền tảng và được tăng cường đầu tư triển khai hết sức mạnh mẽ.

Các số liệu điều tra cơ bản này đã cung cấp những thông tin quan trọng, giúp công tác họach định chính sách biển có hiệu quả cao đồng thời cung cấp cơ sở thông tin khoa học để bố trí không gian và phát triển các vùng biển phù hợp với sinh thái của từng vùng, hướng tới mục tiêu sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển.

Cùng với đó, thời đại Internet phát triển nên việc lưu giữ số liệu, quản lý và cung cấp thông tin cũng thuận lợi và hệ thống thông tin GIS ứng dụng với web cũng đã phát triển mạnh. Việc thu thập, xây dựng, quản lý thông tin liên quan đến biển rất được chú trọng tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Australia…

Tại Australia đã có nhiều nỗ lực tăng cường khả năng tiếp cận, truy cập thông tin và dữ liệu về biển, có thể kể đến là việc vận hành hệ thống “Blue Page 2000.” Đây là một trang thông tin có thể truy cập được các dữ liệu biển, đặc biệt là dữ liệu khu vực đới bờ vốn được quản lý rải rác ở nhiều cơ quan trong nước.

Bên cạnh các công cụ tra cứu thông tin và dữ liệu, Australia còn chú trọng đến việc xây dựng dữ liệu bản đồ, tạo thuận lợi trong công tác hoạch định chính sách, thông qua ứng dụng kỹ thuật WebGIS.

Việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về chính sách, pháp luật liên quan đến khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển cũng được các nước quan tâm, chú ý đẩy mạnh.

Tại Mỹ, Cục Khí tượng Hải dương và một số cơ quan áp dụng hệ thống Danh bạ biển đa mục đích với các ứng dụng về GIS để hiển thị các thông tin về biển. Liên quan đến việc quản lý tổng hợp, thống nhất thông tin tự nhiên biển và viễn thám biển, Mỹ còn xây dựng hệ thống “Liên lạc và Quản lý dữ liệu.” Đây là một hệ thống con của hệ thống quan trắc biển tổng hợp giúp quản lý thống nhất thông tin dữ liệu biển thu được từ các cơ quan liên quan.

Để cộng đồng hiểu rõ và quan tâm hơn đến biển, việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về chính sách, pháp luật liên quan đến khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển cũng được các nước quan tâm, chú ý đẩy mạnh.

Tại Nhật Bản, nhằm tăng mối quan tâm và sự hiểu biết sâu rộng hơn về biển trong toàn dân, Chính phủ Nhật Bản đã tích cực phổ biến tuyên truyền, thúc đẩy giáo dục xã hội và học đường về biển, tuyên truyền phổ biến rộng rãi thông tin liên quan về Luật Biển, chú trọng phổ cập hóa thông qua các hoạt động vui chơi giải trí biển.

Tại Mỹ, trong chính sách biển quốc gia cũng đã xác định giáo dục, đào tạo để nâng cao hiểu biết, cải thiện tình trạng thiếu hiểu biết về khoa học và môi trường, thông qua con đường giáo dục chính qui và phi chính qui, cần được tăng cường với các dự án có mục tiêu, liên tục đánh giá và cải tiến chính là nền tảng quan trọng của quốc gia biển trong tương lai…

Bên cạnh đó, trong những năm qua, các quốc gia trên thế giới cũng không ngừng thúc đẩy hợp tác quốc tế song phương và đa phương về biển, các lĩnh vực chủ yếu liên quan đó là thúc đẩy khoa học kĩ thuật biển, điều tra biển, cứu nạn trên biển, phòng tránh thảm họa, kiểm soát tội phạm trên biển, đào tạo nguồn nhân lực cho các lĩnh vực liên quan đến biển./.

Trải dài hơn 3.260 km bờ biển, Việt Nam có vùng biển lớn đứng thứ 27 trong 157 quốc gia ven biển và các quốc đảo. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, diện tích biển của nước ta chiếm khoảng 30% diện tích Biển Đông và được công nhận là một trong những vùng biển giàu tài nguyên thiên nhiên, địa chính trị quan trọng ở khu vực và thế giới. Vùng bờ của Việt Nam được quy định trong Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo bao gồm vùng nước biển ven bờ có ranh giới phía ngoài cách bờ biển khoảng 06 hải lý và vùng đất ven biển là các xã, phường, thị trấn giáp biển thuộc 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển. Biển Việt Nam tương đối giàu tài nguyên, các giá trị văn hóa - lịch sử; là nơi tập trung nhiều ngành kinh tế trọng điểm của quốc gia; vùng ven biển có mật độ tập trung đông dân cư nhất cả nước. Theo Niên giám thống kê Việt Nam năm 2018, dân số của 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển là khoảng 47 triệu người, chiếm 49,5% tổng dân số của cả nước.

Hiện nay, trong bối cảnh các nguồn tài nguyên đất liền ngày càng cạn kiệt, sức ép của tốc độ gia tăng dân số, nhu cầu phát triển kinh tế dẫn đến khuynh hướng tiến ra biển, khai thác biển, làm giàu từ biển ngày càng được đẩy mạnh. Tuy nhiên, các hoạt động khai thác chủ yếu chỉ tập trung vào các mục tiêu phát triển kinh tế, nhiều phương thức khai thác thiếu tính bền vững, trong khi xem nhẹ công tác bảo vệ môi trường biển còn phổ biến; không có hoặc thiếu những quy hoạch, kế hoạch chi tiết, cụ thể, cùng với cơ chế quản lý lỏng lẻo của các cấp chính quyền, đặc biệt trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu với các biểu hiện chính là sự gia tăng mực nước biển và nhiệt độ của Trái đất. Vấn đề khai thác tài nguyên quá mức và ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực biển trong cả nước đang đứng trước nhiều thách thức

1. Khai thác tài nguyên, phát triển kinh tế và những vấn đề ô nhiễm biển Việt Nam hiện nay

Trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế biển đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển chung của cả nước. Tuy nhiên, trong 10 năm qua, mức đóng góp của kinh tế biển và ven biển vào GDP cả nước đã giảm từ 48% năm 2005 (Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020), xuống còn 40,73% năm 2010 và 32,55% năm 2015 (Báo cáo cung cấp số liệu của Tổng cục Thống kê phục vụ tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược Biển Việt Nam). Năm 2017, mức đóng góp này ước đạt 30,19%, trong đó GRDP của 144 huyện, thị ven biển chiếm 24,68%; GDP của kinh tế biển chiếm 5,51%.

Cùng với những đóng góp to lớn cho sự phát triển, tăng trưởng kinh tế chung của cả nước, biển Việt Nam đã và đang đối mặt với hàng loạt các vấn đề môi trường. Theo kết quả nghiên cứu tổng hợp của Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, trong những năm vừa qua các mối đe dọa chính mà môi trường biển đang phải đối mặt rất phổ biến và đang ở mức độ báo động cao đó là: (i)  Ô nhiễm nguồn gốc từ lục địa và từ biển, (ii) Phá hủy nơi cư trú tự nhiên, (iii) Khai thác và đánh bắt cá quá mức, (iv) Tác động của biến đổi khí hậu. Cụ thể:

- Gia tăng các nguồn ô nhiễm biển: Việc gia tăng các nguồn thải từ lục địa, đặc biệt là theo các dòng chảy sông ra biển dẫn đến môi trường biển nhiều nơi đang có xu hướng suy giảm về chất lượng. Nhiều vùng cửa sông ven biển đã bị ô nhiễm do nước thải công nghiệp, đô thị. Tình trạng xả thải các chất thải chưa qua xử lý hay xử lý chưa đạt quy chuẩn đang diễn biến ngày càng phức tạp ngay tại các tỉnh ven biển, gây thiệt hại lớn về kinh tế, đời sống, sinh kế của cộng đồng dân cư ven biển và những tổn hại khó lường đối với các hệ sinh thái, sinh vật biển. Theo ước tính của các nhà khoa học, 80% lượng rác thải ra biển xuất phát từ các hoạt động trên đất liền. Việt Nam có 112 cửa biển, đây chính là nguồn để rác trôi ra đại dương. Nhiều sinh vật nhầm tưởng rác thải là thức ăn hoặc mắc kẹt giữa các ngư cụ dẫn đến việc sinh cảnh bị phá huỷ. Đại diện Chương trình Môi trường Liên hợp quốc công bố năm 2018, mỗi năm Việt Nam xả ra đại dương 0,28 đến 0,73 triệu tấn rác thải nhựa (chiếm 6% toàn thế giới), đứng thứ 4 thế giới. Ô nhiễm rác thải biển không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng môi trường, hệ sinh thái mà còn tác động đến phát triển kinh tế, cộng đồng dân cư ven biển; tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn, an ninh lương thực.

Ô nhiễm chất hữu cơ và dầu mỡ đã và đang diễn ra khá phổ biến ở các tỉnh thành ven biển Việt Nam, đặc biệt là vùng cửa sông các tỉnh phía Bắc và dọc dải ven biển đồng bằng sông Cửu Long. Ô nhiễm hữu cơ tuy chỉ có tính cục bộ nhưng khá cao và vượt mức cho phép ở gần các khu du lịch, đông dân trải dài từ Bắc vào Nam, như Cửa Lục, Sầm Sơn, Đà Nẵng, Nha Trang và Vũng Tàu... Ở những khu vực này, phú dưỡng, thuỷ triều đỏ và tảo độc hại đã là một vấn đề môi trường nổi bật.

Theo số liệu quan trắc nhiều năm, hàm lượng chất rắn lơ lửng luôn ở mức tương đối cao tại vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Hàm lượng amoni (NH4+) tại hầu hết các khu vực đã ở mức cao vượt ngưỡng cho phép, đặc biệt là ở khu vực biển ven bờ miền Bắc. Hàm lượng dầu mỡ khoáng trong nước biển vượt ngưỡng cho phép tại hầu hết các khu vực cảng biển và có xu hướng gia tăng, nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động của các tàu thuyền làm rò rỉ nhiên liệu dầu mỡ.

Các sự cố môi trường do tràn dầu, hóa chất, xói lở bờ biển… ngày càng gia tăng. Gần đây nhất, điển hình là sự cố ô nhiễm môi trường biển do việc xả thải từ Khu công nghiệp Vũng Áng, Hà Tĩnh của Tập đoàn Formosa trong năm 2016. Theo báo cáo của Chính phủ công bố, những thiệt hại về kinh tế và xã hội là rất lớn. Về kinh tế, riêng số hải sản chết dạt vào bờ được đánh giá khoảng 100 tấn. Lâu dài, do các rạn san hô, phù du sinh vật cũng chết, khiến suy giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản khu vực. Ảnh hưởng đến sinh kế lâu dài của người dân vùng ven biển: hơn 17.600 tàu cá và gần 41.000 người đã bị ảnh hưởng trực tiếp; hơn 176.000 người phụ thuộc bị ảnh hưởng. Sản lượng khai thác ven bờ thiệt hại khoảng 1.600 tấn/tháng. Hoạt động nuôi trồng thủy sản: có khoảng 9 triệu tôm giống bị chết, hàng ngàn lồng nuôi cá cũng bị thiệt hại. Ngoài ra, sự cố cũng gây ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động du lịch biển ở các địa phương này. Về xã hội, sự việc gây ô nhiễm môi trường biển Formosa đã khiến giảm lòng tin của người dân vào Chính phủ và các cơ quan liên quan.

Hoạt động dầu khí, vận tải biển, với quy mô khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí và 272 bến cảng biển đang hoạt động với tổng công suất trên 550 triệu tấn/năm, nhiều năm qua có đóng góp lớn cho nền kinh tế. Ngoài nước thải lẫn dầu với khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt động này phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trên 15 nghìn tấn dầu mỡ trôi nổi, trong đó 23 - 30% là chất thải rắn nguy hại chưa xử lý (Các năm 2006 - 2007 có khoảng 21.600 - 51.800 tấn dầu trôi nổi gây ô nhiễm biển Việt Nam từ Bắc đến Nam, trong đó chỉ có 20 tỉnh, thành ven biển đã vớt và xử lý 1.721 tấn, số còn lại khuyếch tán, lan rộng, gây hậu quả cho thực vật và sinh vật biển)... Ngoài ra, sự cố tràn dầu cũng là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến môi trường biển. Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong giai đoạn 1992 - 2015 đã có 54 vụ tràn dầu nghiêm trọng xảy ra tại vùng biển Việt Nam (Từ năm 2010 đến 2017, có đến trên 100 vụ việc tràn dầu từ tàu biển lớn nhỏ, nhiều vụ rò rỉ khối ượng lớn: tàu chở hàng Onnekas One (quốc tịch Malaysia) gặp nạn trên khu vực biển tỉnh Thừa Thiên Huế (ngày 23/12/2012); sự cố sà lan AZ Beijing chìm tại Kiên Giang năm 2012; sự cố 10 tàu hàng gặp nạn do bão số 12 tại vùng biển Quy Nhơn trong tháng 11/2017).

- Khai thác biển thiếu bền vững, gia tăng tốc độ suy giảm đa dạng sinh học (ĐDSH)

Tài nguyên biển đang bị khai thác quá mức, thiếu tính bền vững; nạn phá hủy rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn ngày càng gia tăng ở nhiều nơi. Theo ước tính, cỏ biển trên toàn vùng biển nước ta từ Quảng Ninh đến Hà Tiên đã mất khoảng 40 - 60%; rừng ngập mặn mất đến 70%; và khoảng 11% các rạn san hô đã bị phá hủy hoàn toàn, không có khả năng tự phục hồi. Những cánh rừng ngập mặn nguyên sinh hầu như không còn. Sự suy giảm trầm trọng diện tích rừng ngập mặn đã kéo theo sự suy giảm ĐDSH biển, đặc biệt mất bãi đẻ và nơi cư ngụ của các loài thủy sinh (Chuyên đề sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 24).

Hệ sinh thái (HST) thảm cỏ biển là một trong những HST biển quan trọng, nhưng hiện nay đang đứng trước nguy cơ bị tổn thương và suy thoái. Sự suy thoái HST thảm cỏ biển thể hiện trên các khía cạnh như giảm số lượng cá thể và số loài, thu hẹp diện tích phân bố, ô nhiễm, thoái hóa môi trường sống, giảm ĐDSH và nguồn lợi kinh tế của các loài quý hiếm kèm theo. Thảm cỏ biển phân bố từ Bắc vào Nam và ven các đảo, ở độ sâu từ 0 - 20m, hiện chỉ còn khoảng trên 5.583ha. Một số khu vực, thảm cỏ biển hầu như không có cơ hội để phục hồi tự nhiên do có quá nhiều tác động do hoạt động du lịch, nuôi trồng thủy sản ở khu vực này (Cát Bà, Hạ Long, Quảng Nam…).

Trong vòng hơn 20 năm qua, Việt Nam đã mất 12% số rạn san hô; 48% số rạn san hô khác đang trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Diện tích các rạn san hô bị mất, tập trung chủ yếu ở các vùng có dân cư sinh sống như vịnh Hạ Long, các tỉnh ven biển miền Trung và một số đảo có người sinh sống thuộc quần đảo Trường Sa, nhiều nơi độ phủ giảm trên 30%. Sự suy giảm diện tích và những tổn thương của nhiều rạn san hô làm suy giảm ĐDSH, sinh thái và chất lượng môi trường biển; thiệt hại cho ngành du lịch và thủy sản và sinh kế của các cộng đồng vùng ven biển. Hiện nay mặc dù đã nghiên cứu trồng và phục hồi, tái tạo thành công san hô ngoài tự nhiên, nhưng diện tích được phục hồi còn rất thấp.

- Khai thác và đánh bắt cá quá mức: Đến nay đã ghi nhận khoảng 100 loài sinh vật biển nước ta có nguy cơ đe dọa và quý hiếm đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam và Danh mục đỏ IUCN để yêu cầu phải có biện pháp bảo vệ (37 loài cá biển, 6 loài san hô, 5 loài da gai, 4 loài tôm rồng, 1 loài sam, 21 loài ốc, 6 loài hai mảnh vỏ, 3 loài mực). Kết quả nghiên cứu của FAO và một số tổ chức quốc tế khác trong những năm gần đây đều chỉ ra rằng khoảng hơn 80% lượng cá trên các vùng biển ven bờ và ngoài khơi của Việt Nam đã bị khai thác, trong đó có đến 25% lượng cá bị khai thác quá mức hoặc khai thác cạn kiệt; sản lượng đánh bắt giảm đáng kể; nhiều loài sinh vật biển khác đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng.

- Thiên tai và các tác động của biến đổi khí hậu: Các hiện tượng thời tiết cực đoan, dị thường như nhiệt độ tăng, bão mạnh, mưa lớn, lũ lụt, hạn hán và nước biển dâng cao,... đã và đang có dấu hiệu trở nên phổ biến hơn trong thời gian gần đây và nguyên nhân chính là do tác động của biến đổi khí hậu. Theo kịch bản BĐKH đến năm 2070, nhiệt độ ở các vùng ven biển Việt Nam có khả năng tăng thêm 1,5°C; vùng nội địa tăng 2°C. Biến đổi khí hậu, cụ thể là mực nước biển dâng cao, làm cho tình trạng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn và trở thành một trong những vấn đề nan giải tại một số địa phương: Đồng bằng sông Cửu Long với 1,77 triệu ha đất nhiễm mặn, chiếm 45% diện tích, là vùng có diện tích đất nhiễm mặn lớn nhất cả nước. Nếu mực nước biển tiếp tục dâng cao lên 30cm theo kịch bản BĐKH năm 2050, mất đất và xâm nhập mặn sẽ càng gia tăng ở Đồng bằng sông Cửu Long và một số khu vực Đồng bằng sông Hồng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia. Ngoài ra, mực nước biển dâng cao khiến diện tích rừng ngập mặn suy giảm và làm mất nơi cư trú của nhiều loài thủy sinh vật.

Theo báo cáo của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai trình Chính phủ về tình hình hạn hán, xâm nhập mặn khu vực Nam Trung Bộ, đến thời điểm báo cáo (ngày 15/4/2016) hạn hán nghiêm trọng đã xảy ra trên diện rộng ở Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long (70% diện tích canh tác). Tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, xâm nhập mặn vào đất liền sâu nhất lên đến hơn 90km (chưa từng xuất hiện trong lịch sử quan trắc xâm nhập mặn). Đây được coi là đợt hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng nhất trong vòng 100 năm trở lại đây cho các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.

Giai đoạn 2011 - 2015, thiên tai tuy xảy ra ít về số lượng nhưng cường độ tác động một số đợt lại ở mức cao kỷ lục. Nắng nóng gay gắt với nền nhiệt cao kéo dài kỷ lục xảy ra trên diện rộng từ Bắc Bộ đến các tỉnh Nam Trung Bộ. Mưa đặc biệt lớn tại Quảng Ninh; sạt lở đất, bờ sông, bờ biển xảy ra nhiều nơi; xâm nhập mặn xảy ra sớm hơn và lấn sâu vào đất liền; tình trạng cạn kiệt nguồn nước trên các dòng sông ngày càng phổ biến đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng nước mặt, môi trường đất và các vấn đề vệ sinh môi trường vùng ven biển.

Nhìn một cách tổng thể giai đoạn 20 năm vừa qua có thể thấy kinh tế biển, các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển đất nước; khuynh hướng tiến ra biển, khai thác biển, làm giàu từ biển cùng những đóng góp to lớn từ khai thác tài nguyên biển vào quá trình phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, do các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, môi trường biển là một phạm vi rộng lớn, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp nên việc quản lý và bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững còn nhiều bất cập. Ô nhiễm biển đã và đang là mối nguy, là cản trở lớn cho quá trình phát triển bền vững biển Việt Nam.

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên, nhưng sâu xa, đó chính là vấn đề nhận thức, ý nghĩa và trách nhiệm về bảo vệ môi trường (BVMT) biển của các ngành, các cấp, các doanh  nghiệp và người dân còn nhiều bất cập. Tư duy phát triển vẫn xem trọng các yếu tố kinh tế, tăng trưởng ngắn hạn hơn các yếu tố môi trường; coi trọng lợi ích trước mắt hơn các lợi ích và hệ quả lâu dài; các yêu cầu phát triển bền vững giữa kinh tế, xã hội và BVMT biển chưa được quán triệt đầy đủ, sâu sắc trong các quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển và các đề án, dự án cụ thể... dẫn đến việc thực thi không nghiêm, không hiệu quả. Việc nâng cao nhận thức, ý thức và trách nhiệm liên kết địa phương, vùng, liên ngành trong BVMT biển, trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng chưa được quan tâm đầy đủ. Hơn nữa, hạn chế về nguồn lực cho việc thực hiện các kế hoạch cụ thể đã ban hành, việc huy động nguồn lực quốc tế, nguồn xã hội hoá… xét về tổng thể còn thiếu bài bản, chưa sử dụng hiệu quả. Việc lồng ghép vấn đề BVMT vào trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển còn nhiều khó khăn, lúng túng trong thực tế. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong ứng phó với vấn đề môi trường biển (sự cố, thảm hoạ môi trường) còn rất hạn chế; chưa tạo được mối liên hệ chặt chẽ, thuận tiện giữa các cơ quan Trung ương với các địa phương hay giữa các địa phương. Bên cạnh đó, các quy định xử phạt của Việt Nam còn nhiều khác biệt và chồng chéo. Nhiều hành vi vi phạm pháp luật về BVMT biển còn chưa được đề cập đến. Các mức độ vi phạm đã cố gắng chi tiết hoá nhưng chưa đầy đủ, mức độ xử phạt còn thấp và còn thiếu quy định về sử dụng các công cụ pháp lý - kinh tế như những biện pháp hữu hiệu để kiểm soát và ngăn ngừa ô nhiễm biển.

3. Khuyến nghị một số giải pháp hạn chế ô nhiễm biển Việt Nam giai đoạn tới

Để thực sự đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 36-NQ/TW) đã nêu, việc ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển đã được xác định là một trong những nhiệm vụ cấp bách trong thời gian tới.

Về kiểm soát hiệu quả các nguồn gây ô nhiễm môi trường nước biển:

- Đẩy mạnh hơn nữa xây dựng và áp dụng các công cụ kinh tế và chính sách trong quản lý môi trường biển, như: lệ phí ô nhiễm, lệ phí xả thải, phí sử dụng biển, phí sản phẩm, lệ phí hành chính thuế, cấp phép và thu hồi giấy phép khai thác, sử dụng biển, đảo, các quỹ môi trường biển và các khoản trợ cấp khác…

- Cần có sự liên kết phối hợp liên tỉnh, liên vùng và liên ngành chặt chẽ, hiệu quả trong việc kiểm soát các nguồn trực tiếp gây ô nhiễm, suy thoái môi trường vùng biển ven bờ, đặc biệt là nguồn thải từ các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, cơ sở nuôi trồng, chế biến thuỷ sản, hoạt động thương mại, dịch vụ... dọc theo bờ biển, trên các đảo, cụm đảo; bảo đảm nước thải phải được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra biển.

- Xây dựng hệ thống quan trắc, đánh giá phạm vi, mức độ tác động của các nguồn gây ô nhiễm biển từ đất liền, đặc biệt là từ các lưu vực sông, từ các vùng canh tác nông nghiệp ven biển phải được tiến hành đồng thời với việc đẩy mạnh lập kế hoạch xử lý các cơ sở gây ô nhiễm vùng ven biển.

- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường, đặc biệt đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển, trên biển, trên các đảo, cụm đảo; kiểm soát chặt chẽ các hoạt động lấn biển, nhận chìm; kiểm soát, ngăn chặn hoàn toàn việc đổ chất thải nguy hại xuống biển dưới mọi hình thức. Đánh giá môi trường chiến lược đảo đảm chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển biển, vùng ven biển, hải đảo phải đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường từ khâu lập, phê duyệt, triển khai thực hiện. Thực hiện nghiêm các quy định về đánh giá tác động môi trường.

- Trong giai đoạn tới, cần tập trung tăng cường năng lực ứng phó nhanh, hiệu quả với các sự cố môi trường ở các vùng cửa sông ven biển và trên biển; xã hội hoá, kêu gọi đầu tư từ khối doanh nghiệp trong hoạt động giám sát và ứng phó sự cố môi trường biển; thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ các yêu cầu về điều kiện, năng lực ứng phó sự cố của tàu, thuyền hoạt động trên biển hoặc đi qua các vùng biển Việt Nam.

Nghị quyết số 36-NQ/TW về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, đã xác định đối với công tác bảo tồn, phát triển bền vững ĐDSH biển trong thời gian tới, Việt Nam cần tập trung thực hiện các giải pháp lớn như: Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến công tác bảo tồn ĐDSH nói chung, bảo tồn ĐDSH biển nói riêng, trong đó chú trọng đến các cơ chế toàn cầu và khu vực mà các điều ước và diễn đàn quốc tế đang quan tâm. Tiếp tục mở rộng diện tích, thành lập mới các khu vực bảo tồn biển trên cơ sở quy hoạch không gian biển quốc gia, trong đó chú trọng việc bảo tồn ĐDSH, phục hồi các hệ sinh thái, nhất là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển, bảo đảm tính toàn vẹn và mối quan hệ tự nhiên giữa các hệ sinh thái đất liền và biển… Đây là những định hướng giải pháp lớn, mang tính dài hạn. Để thực hiện thành công những định hướng trên, trong thời gian tới cần chú trọng đầu tư nguồn lực thực hiện đồng thời với các giải pháp tăng cường khả năng chống chịu của các hệ sinh thái biển trước tác động của biến đổi khí hậu, trong đó:

- Cần xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về phí và lệ phí trong việc các bên liên quan được hưởng các lợi ích từ khu bảo tồn biển, các quy định hỗ trợ người dân trong khu bảo tồn biển chuyển đổi sinh kế và cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ban, ngành trong việc xây dựng, vận hành khu bảo tồn biển…

- Quan tâm đầu tư hơn nữa cho nghiên cứu khoa học công nghệ biển nói chung, nghiên cứu các HST biển nói riêng. Qua đó làm rõ được chức năng sinh thái và năng suất sinh học của các HST biển, từng vùng biển Việt Nam. Đặc biệt là HST có tính nhạy cảm cao: đất ngập nước ven biển, rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển… Đây chính là tiền đề quan trọng cho việc quy hoạch không gian biển quốc gia cũng như việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển và vùng bờ của Việt Nam trong thời gian tới.

- Từng bước đánh giá tính đặc thù, tính đại diện của các HST biển, vùng bờ ven biển và khả năng chống chịu của chúng trước tác động của biến đổi khí hậu; rà soát, xem xét mức độ đáp ứng các tiêu chí thành lập vườn quốc gia, khu bảo tồn biển… lập quy hoạch thành lập mới, mở rộng các khu hiện có để từng bước thiết lập hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên trên biển.

- Thực hiện đánh giá và xác định các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng suy thoái nguồn lợi thuỷ sản, đặc biệt ở các vùng biển gần bờ;

- Đưa 16 khu bảo tồn vào hoạt động và mở rộng khu bảo tồn biển hiện có, đồng thời điều tra, khảo sát, thiết lập và đưa vào hoạt động một số khu bảo tồn biển mới.

Về nâng cao nhận thức và hợp tác giữa các bên liên quan:

- Tăng cường công tác tuyên truyền, tiến hành các chương trình giáo dục cộng đồng, thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng và từng bước đưa các môn học về ÐDSH vào các trường học ở mọi cấp, cũng như triển khai xây dựng, nhân rộng các mô hình sinh kế bền vững từ ÐDSH, với sự tham gia đầy đủ và có trách nhiệm của các doanh nghiệp, cộng đồng trong khai thác và bảo vệ môi trường biển.

- Cần chú trọng mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo tồn biển, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn hỗ trợ quốc tế để thúc đẩy việc thành lập và quản lý các khu vực biển có giá trị quan trọng; tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế trong các lĩnh vực: nâng cao năng lực và nhận thức, hướng dẫn người dân chuyển đổi sinh kế…

*Bài viết đã được công bố trong Hội thảo “Đánh giá những yếu tố tác động đến nhiệm vụ bảo đảm an ninh trật tự các tỉnh, thành ven biển góp phần phục vụ chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam” do Cục Khoa học Chiến lược và Lịch sử Công an, Bộ Công an tổ chức, tháng 6 năm 2019.

1. Nghị quyết số 24-NQ/TW của Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

2. Nghị quyết số 36-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045.

3. Quốc hội (2012), Luật Biển Việt Nam.

4. Quốc hội (2015), Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo.

5. Quốc hội (2017), Luật Thủy sản.

6. Quyết định số 742/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020.

7. Quyết định số 1570/QĐ-TTg ngày 06 tháng 9 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

8. Quyết định số 2295/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược Quản lý tổng hợp đới bờ Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

9. Đặng Xuân Phương, Nguyễn Lê Tuấn (2014), Quản lý nhà nước tổng hợp thống nhất về biển và hải đảo; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

10.  Đặng Trung Tú, Quản lý và bảo vệ môi trường đới ven biển bằng công cụ chính sách. Môi trường Nông nghiệp – nông thôn và đa dạng sinh học ở miền Trung Việt Nam. NXB Đại học Huế, 2018.

11.  Đặng Trung Tú và nnk. Khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển. NXB Hồng Đức,.

12.  Tổng cục Môi trường (2016). Báo cáo Hiện trạng môi trường toàn quốc giai đoạn 2010 - 2015.

13.  Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, 2013. Báo cáo xây dựng Chiến lược Khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Đề án tổng thể điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - môi trường biển giai đoạn I.

14.  Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường. Báo cáo tóm tắt sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.